Wednesday, August 9, 2017

Puskin- mặt trời của thi ca Nga

Ông được xem là"khởi đầu của mọi khởi đầu"(Gorki), là "nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga" (Bielinxki), là"con người của tinh thần Nga" (Gôgôn). Ông chính là Puskin- mặt trời của thi ca Nga. Dường như lịch sử nước Nga đã lựa chọn để trao cho Puskin một sứ mệnh thiêng liêng vĩ đại: Tổng kết sự phát triển của toàn bộ văn học Nga trải qua 8 thế kỉ, đồng thời khai phá những đỉnh cao chói ngời nhất, đưa văn học Nga trở thành những trang vàng rực rỡ nhất của văn học thế giới, làm cho các châu lục phải ngoái nhìn kinh ngạc, thán phục và mến yêu. Với cuộc đời sóng gió và ngắn ngủi, Puskin đã kịp làm cho nước Nga biết bao kỳ tích, ông đã thắng dây cương cho cỗ xe tam mã Nga phi những nước đại đáng kinh ngạc, điều mà ở các nước khác người ta phải đi hàng trăm năm và sức lực của nhiều người, nhiều thời gian cộng lại cũng không dễ gì làm nổi.

[​IMG]

Nhắc đến Puskin, chắc hẳn ai cũng nghĩ đến ông với tư cách là một nhà thơ. Cuộc sống bình thường xung quanh là đối tượng của thơ Puskin. Trong thơ ông có bông hoa ép bị lãng quên, có tiếng hót của con chim sơn tước, có bầu trời "thoang thoảng hơi thu", có "con đường mùa đông" tuyết phủ trắng một nỗi buồn khắc khoải, lại có cả những gì rất đỗi bình dị thân thương như túp lều tranh, đống rạ, tấm lưới dân chài…Hơi thơ của Puskin vô cùng độc đáo, nó tràn ngập hiện thực, nó không rắc phấn hồng lên cuộc sống mà miêu tả cuộc sống trong vẻ đẹp tự nhiên chân thật của nó. Đặc biệt Puskin được mệnh danh là nhà thơ của tình yêu. Ông viết những bài thơ tình yêu rất dễ thương cho những người đang yêu. Rất nhiều bài thơ tình của Puskin đã được các thế hệ nhạc sĩ nổi tiếng của Nga chọn để phổ nhạc, vẫn còn vang động như những “khúc dân ca mới” làm nên sự bất tử của thơ ca.

Puskin trước hết là một nhà thơ, nhưng ông cũng sáng tác cả văn xuôi ở mức độ hoàn thiện không thể so sánh được. Đến với thơ ca, dẫu sao Puskin đã có những bậc thầy dìu dắt, còn trên lĩnh vực mới mẻ này ông phải tự mình khai phá những bước đi gần như đầu tiên. Ông được coi là người đặt những viên đá tảng cho nền móng mới mẻ và vững chắc của thể loại, là người cày những luống cày đầu tiên trên mảnh đất hoang sơ của văn xuôi Nga cuối thế kỉ XVIII.Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Và tập sách này là một minh chứng cụ thể cho những sự sáng tạo đó. Lịch sử Nga sẽ mãi mãi ghi công người sáng tạo nên ngôn ngữ Nga văn học hiện đại- một ngôn ngữ trong sáng, giản dị, sinh động, thuần khiết hơi thở Nga, tâm hồn Nga. Theo lời Bielinxki, thơ ca Nga trước thời kỳ Puskin sáng tác là "một thứ cây được bứng từ nơi khác, chứ không phải là giống cây bản địa" thứ cây chỉ có cành lá mà không có gốc rễ và tư tưởng. Puskin đã đem đến cho nó cội rễ và tư tưởng, tinh thần và khí chất Nga, biến nó thành thứ cây bản địa.

Trước Puskin, nhiều ý kiến cho rằng thi ca Nga chỉ có thể viết bằng loại ngôn ngữ Xlavian (ngôn ngữ dùng để dịch Kinh Thánh). Puskin chứng minh khác hẳn: Thơ ca Nga có thể và cần phải dệt bằng ngôn ngữ nói thường ngày hết sức sống động, giản dị, trong sáng và hàm súc của nhân dân. Ông đã hoà quyện tuyệt vời hai dòng văn học vốn tồn tại tách bạch hàng bao thế kỉ nay ở Nga là văn học dân gian và văn chương bác học, xóa đi khoảng cách giữa "ngôn ngữ cao quý" và "ngôn ngữ thấp kém". Trong các tác phẩm Người da đen của Piốt đại đế, Tập truyện ông Ivan Pêtơrôvich Benkin đã quá cố, Đôbrốpxki, Con đầm pích, Người con gái viện đại úy..., nhà văn đã bỏ lối miêu tả rườm rà, dẫn dắt mà chỉ lựa chọn những từ ngữ ngắn gọn, chính xác điều này thể hiện rõ ở ngay phần mở đầu của các tác phẩm.

Đề tài và nhân vật trong văn xuôi Puskin khá đa dạng. Khác với văn xuôi đương thời và các giai đoạn trước chỉ chú ý đến đời sống của tầng lớp quý tộc cung đình với những sinh hoạt xa hoa, trụy lạc hay những mối tình lãng mạn của những “chàng”, “nàng”, Puskin gắn sáng tác của mình với thực tế sôi động, với số phận của những con người thuộc lớp dưới của xã hội. Đồng thời, nhà văn khai thác đề tài lịch sử và những biến cố bước ngoặt ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc. Trong truyện Rô-la-liép, nhà văn lấy bối cảnh nước Nga những năm đầu thế kỷ XIX mà trung tâm là cuộc chiến tranh 1812. Thông qua câu chuyện tình của một cô gái quý tộc Nga với một sĩ quan Pháp, Puskin phân tích tính cách bợ đỡ mù quáng của giới quý tộc cung đình Nga đối với phương Tây và thói háo danh vô liêm sỉ của chúng đối với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần anh dũng của nhân dân Nga.Trước cảnh Matxcơva bị thiêu cháy, nhân vật Pôlia tự hào nói rằng: “... ta có thể tự hào rằng mình là một người Nga! Thiên hạ sẽ phải sửng sốt vì sự hy sinh lớn lao này!Bây giờ thì dù cho chúng ta có suy tàn, tôi cũng không sợ nữa, danh dự của chúng ta đã được cứu vãn. Không bao giờ Châu Âu còn dám đối chọi với một dân tộc đã tự mình chặt đứt cánh tay của mình, tự đốt cháy kinh đô của mình”.

Quan tâm đến những vấn đề lịch sử, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa nông dân vào thế kỷ XVIII là động lực thúc đẩy Puskin viết Người con gái viên đại úy.Trong tác phẩm dòng đời và dòng lịch sử chảy hoà vào nhau một cách tự nhiên, mạch truyện linh hoạt và liên tục, đâm đà phong cách dân gian. Puskin đã xây dựng nên hình ảnh đầy chất hiện thực và huyền thoại về người anh hùng áo vải Êmiliên Pugatsốp, vừa bình dị hoà đồng như đứa con đẻ của nhân dân, vừa hào hùng khí phách như tráng sĩ Nga trong truyện cổ.

Một mảng hiện thực sinh động trong văn xuôi Puskin là viết về những “con người nhỏ bé”, những viên chức nghèo, những người làm nghề lương thiện, những tiểu thư nông dân có cuộc sống bấp bênh và công việc nặng nhọc. Trước Puskin "con người nhỏ bé" đã có mặt trên trang văn học Nga, nhưng đó là những con người được nhìn từ cặp mắt thương hại, thái độ quan tâm hời hợt của kẻ bề trên ban ơn xuống, hoặc được rắc phấn hồng che đi ranh giới, mâu thuẫn với những kẻ quyền quý cao sang. Puskin đã thực sự đưa ra được hình tượng hết sức chân thực về "con người nhỏ bé" với một thái độ trân trọng, đồng cảm.
Truyện Người quản trạm nhà văn kể về số phận trớ trêu, gian khổ của Xamxôn Vưrin. “Con người nhỏ bé”, lương thiện và cần mẫn ở trạm giao thông heo hút trên đất Nga này bị lăng nhục thậm tệ và người con gái duy nhất của ông đã bị lừa đi theo một hành khách đểu cáng. Viết về những con người này Puskin không hề tô vẽ, nội tâm và chân dung bên ngoài của nhân vật cứ hiện ra chân thật, tự nhiên, rõ nét. Puskin chân thành chia sẻ công việc, ước mơ, cảm thương sâu sắc cho những số phận nghiệt ngã của con người thuộc tầng lớp dưới, thể hiện lòng căm giận những bất công ngang trái ở đời.

Ngoài ra hình tượng Con người thừa là đóng góp đáng kể của Puskin cho văn học Nga và thế giới. Với hình tượng này nhà văn đã vẽ nên chân dung chân thực, sống động của một lớp thanh niên thời đại- một kiểu sản phẩm tất yếu của điều kiện xã hội lúc bấy giờ, dự báo những tính cách mới sẽ phát triển. Đây là điểm mới của văn xuôi Puskin, là sự chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực đối với chủ nghĩa lãng mạn. Trong văn xuôi Puskin, đặc biệt là truyện ngắn thường có kết cấu ngắn gọn, súc tích, chặt chẽ. Sự ngắn gọn về hình thức và ngôn từ nhưng không ngắn về nội dung phản ánh. Các truyện của Puskin đưa người đọc tiếp xúc ngay với câu chuyện qua lời văn tự nhiên, cô đọng, tạo ra sự suy nghĩ, liên tưởng độc đáo về con người và sự việc.Cách dẫn truyện và giới thiệu nhân vật, địa điểm, thời gian một cách cụ thể, chính xác đã làm tăng giá trị chân thực của tác phẩm. Các truyện ngắn Người quản trạm, Đubrốpxki và nhất là Con đầm pích thật sự trở thành những mẫu mực của công thức "nội dung lớn trong hình thức nhỏ". Và đặc biệt nghệ thuật kể chuyện của Puskin mang một phong cách riêng. Hầu hết trong các truyện, nhân vật người kể chuyện thường ở ngôi thứ nhất. Nhân vật tôi trực tiếp kể về mình hoặc chuyện được chứng kiến.

Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. “Tôi yêu em” là một trong những bài thơ như thế.

Tôi yêu em đến nay chừng có thể 
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;
Nhưng không để em bận lòng thêm chút nữa,
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài. 


Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng,,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.


Đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự đã thể hiện một tư tưởng nhân văn cao đẹp. Một vấn đề thuộc về đạo đức và nhân cách con người đã được nhà thơ thể hiện dưới một hình thức giản dị và giàu khả năng gợi cảm. Đây cũng chính là một trong những thành công nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Pu-skin.

Tôi yêu em là một tình yêu vô vọng, thấm một sắc điệu buồn, nhưng hơn hết vẫn là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà vị tha, cao thượng, bộc lộ vẻ đẹp của tâm hồn và nhân cách con người nhân hậu, biết “kính trọng vô hạn đối với phẩm giá con người với tư cách là Con Người” (Biêlinxki), vì thế bài thơ chứa đựng những giá trị tinh thần nhân văn cao cả của loài người. Chất thơ của bài thơ chủ yếu toát ra từ những xúc cảm chân thành, từ những lời lẽ giản dị, từ giọng trữ tình dồn nén mà mãnh liệt, tạo được sức mạnh biểu đạt tình cảm. Sức hấp dẫn của bài thơ trước hết là bởi “Đối tượng tự nó hấp dẫn đến mức chả cần gì tới sự tô điểm nào cả” (Puskin). Có lẽ cũng vì vậy mà bài thơ không ngừng gây xúc động trong lòng bao thế hệ bạn đọc…

Trong bài thơ có rất nhiều câu thơ hay nhưng tôi thích nhất là đoạn thơ:

Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Lời cầu chúc giản dị mà thể hiện được cả một nhân cách. Đó là lời cầu chúc tuyệt vời nhất của nhân loại. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng “hậm hực lòng ghen”. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em. Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Chấp nhận yêu đơn phương, chấp nhận sự thực là em sẽ có người khác nhưng lại nhấn mạnh và xác nhận tình yêu mãnh liệt của mình, một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự.

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em”. Câu thơ là lời bày tỏ tình cảm nhưng đồng thời thể hiện tình yêu cao thượng, một tư tưởng nhân văn cao đẹp cầu cho em được hạnh phúc, được người yêu em như tôi từng yêu. Hiếm có một nhà thơ nào bộc lộ điều đó như Puskin. Đây chính là điểm đắt nhất của bài thơ.
Thơ tình của Pu-skin không chỉ chiếm được cảm tình của bạn đọc trẻ tuổi mà còn có sức tác động rất mạnh đến tâm hồn bạn đọc. Và một điều chắc chắn rằng Tôi yêu em là lí tưởng về một tình yêu đích thực, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều người về quan niệm tình yêu chân chính.

Chặng đường viết văn xuôi của Puskin chưa đầy 10 năm, di sản của ông tuy không đồ sộ, nhưng đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của văn chương tự sự Nga, khai thông cho những đỉnh cao sau này của thể loại. Tất cả những nhà văn vĩ đại về sau đều ngưỡng mộ và chịu ơn ông. Tất cả đều bắt nguồn từ con sông lớn Puskin. Con sông đó chảy đến ngã ba ngã bảy chia ra thành nhiều lưu nhánh với dòng chảy đặc trưng của mình, nhưng chúng không bao giờ để mất hút dấu vết đầu nguồn. Có lẽ chính vì thế mà Gorki đã khẳng định: "Không có Puskin, thì trong một thời gian rất dài sẽ không có Gôgôn, L.Tônxtôi, Tuốcghênhép, Đôxtôiepxki. Tất cả những con người vĩ đại này của nước Nga đều công nhận Puskin là bậc thủy tổ tinh thần của mình”. Mặt trời thi ca Nga vụt tắt. Cái chết của Puskin để lại khoảng trống lớn trong khu vườn văn học Nga. Nhưng Puskin là một hiện tượng “vĩnh viễn sống”. Cuộc đời ngắn ngủi của ông từ nay trở thành bất tử.


ST-- https://diendan.tiengnga.net/18-puskin-nha-tho-lon-cua-nuoc-nga.t4325.html

Văn học Nga – chiếc nôi của sự vĩ đại

Lượn hiệu sách, lần nào cũng vậy, loanh quanh rồi lại mò đến khu vực bày sách văn học Nga. Hễ cứ sa vào khu vực ấy, tôi cũng bị mê dụ, khó tránh khỏi cám dỗ, nâng lên đặt xuống mãi rồi cũng mua một vài quyển, cho dù tôi đã từng đọc, từng mua quyển sách mang đậm nét văn hóa nước Nga đó. Nhìn thấy chúng, tôi lại càng muốn đi tour du lịch Nga hơn.
Văn học Nga
Văn học Nga

Văn học Nga – Chiếc nôi của sự vĩ đại

Trong bộ sách Đi tìm thời gian đã mất ( Retrouvé le temp ) của Marcel Prouts, ở phần Cái tên xứ sở, tác giả đã tự sa vào mê cung của hồi ức, để rồi giăng bẫy bạn đọc và để họ tự cuốn theo không tài nào cưỡng nổi, quẫy tìm mãi mà chẳng thấy đường ra. Văn học Nga cũng luôn làm tôi mất phương hướng. Với tôi, văn học Nga không chỉ là văn thôi, mà còn là tình cảm và ký ức. Chẳng thế mà trong phần tự bạch của mình về văn chương thế giới kim cổ, văn học Nga đã chiếm một tỷ trọng không nhỏ và càng làm tôi muốn đi du lịch Nga.
Về nhà văn : N. L.Tolstoi ( nhà văn xuất sắc nhất ), S.A. Exenin (nhà thơ xuất sắc nhất ) , A.P. Tsekhov ( nhà văn viết truyện ngắn & kịch xuất sắc nhất ) , I.S. Turgeniev ( nhà văn viết về tình yêu hay nhất ) , P.M. Dostoievski ( nhà văn viết về cái ác hay nhất ) , M. Gorki ( nhà văn viết cho thiếu nhi hay nhất ), K.G. Pautovsky ( nhà văn viết chân dung văn học xuất sắc nhất ), I.A. Bunin ( nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc nhất ).
Về tác phẩm văn học : Chiến tranh và hòa bình (N.L Tolstoi)- tiểu thuyết xuất sắc nhất ; Bút ký người đi săn ( I.S. Turgeniev )- tác phẩm du ký xuất sắc nhất ; Sông Đông êm đềm ( M.K. Solokhov )- tiểu thuyết hoành tráng nhất ; Taras Bulba ( N.V. Gogol )- tiểu thuyết bi tráng nhất ; Đất vỡ hoang ( M.K. Solokhov )- tiểu thuyết khôi hài nhất; Cánh buồm đỏ thắm (A. Grin )- tác phẩm cho thiếu nhi hay nhất ; Chuyện núi đồi và thảo nguyên ( T. Aimatov )- tác phẩm văn xuôi giàu chất thơ nhất ; Evgeni Onegin (A.S.Pushkin )- trường ca hay nhất v.v…
Ngày ấy, cuối những năm sáu mươi và đầu bảy mươi thế kỷ trước, sách truyện hiếm lắm, còn hơn xa xỉ phẩm. Sách giáo khoa cho học sinh còn truyền nhau mấy thế hệ trong nhà cùng học thì lấy đâu ra sách truyện. Tôi may mắn vì cha tôi vốn là mọt sách, ông lại giỏi hai ngoại ngữ là Hán ngữ và Pháp ngữ, nên đọc rất nhiều. Từ nhỏ, tôi thường được cha kể cho nghe nhiều chuyện. Chuyện Tàu thì có Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Du ký, Phong thần diễn nghĩa… còn chuyện Tây thì những Truyện cổ An-đec-xen, truyện cổ Grim, truyện ngụ ngôn La Phông-ten… Song đấy mới là chuyện kể. Còn những tác phẩm văn học tôi tự đọc lấy thì lại là những tác phẩm văn học Nga – Xô viết. Tôi nhớ, những cuốn sách văn học Nga đầu tiên tôi được đọc là: Thời thơ ấu, Những trường đại học của tôi, Kiếm sống ( M. Gorky ), Suối thép (A.Xêraphimôvits ), Những linh hồn chết ( N.V. Gogol ), Chiến tranh và hòa bình ( L. Tolstoi ), Người con gái viên đại uý ( A. Pushkin ), Người anh hùng của thời đại chúng ta ( M. Lermontov ), Chuyện chú bé đánh trống ( A.P. Gaidar ), Cánh buồm đỏ thắm ( A. Grin ), Con đường đau khổ ( A. Tolstoi ), Đội cận vệ thanh niên ( A. Fadeev ); rồi cuốn Trong chiến hào Xtalingrad , Những người chân đất và một số tác phẩm của các nhà văn học Nga mà giờ đây tôi không còn nhớ tên tác giả.
Lớn lên chút nữa, tôi có dịp mon men đến các tác phẩm khác như Anna Karenina ( L. Tolstoi ), Taras Bulba ( N. V Gogol ), Bút ký người đi săn, Cha và con, Mối tình đầu, Lũ xuân, Axia ( I. Turgeniev ), Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang ( M. Solokhov ) , Người đàn bà có con chó nhỏ cùng vài ba truyện ngắn khác của A. Tsekhov… Và như vậy, tôi đã mong manh biết hương vị của tình yêu đôi lứa toát ra từ những nhân vật, những cuốn sách văn học Nga vốn luôn thấm đẫm tình người. Những tình cảm đó len lỏi trong tôi, ít nhiều dẫn dắt tôi đến với thứ tình cảm tự nhiên đầy hấp dẫn với tuổi mới lớn, tình yêu nam nữ, mối tình đầu…
Văn học Nga
Văn học Nga
Đến lúc tôi học đại học, cũng là thời điểm Việt Nam đang lên đến đỉnh cao của quang vinh, ấy là kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh chống Mỹ Ngụy. Đây cũng là thời điểm cực thịnh của phe XHCN. Lưu học sinh Việt Nam ào ạt sang Liên Xô học tập, từ học nghề và bậc đại học đến bậc cao hơn là phó tiến sĩ, tiến sĩ đủ các chuyên ngành. Những người từng được đào tạo sớm ở Liên Xô đã về nước làm việc thì vào độ chín. Ấy cũng chính là lúc văn học Nga – Xô-viết được dịch ra tiếng Việt, được các nhà xuất bản ở ta thi nhau in. Tuy in trên giấy xấu, song người đọc có cái mà đọc. Những năm tháng này, qua hệ thống thư viện nhà trường, rồi dè sẻn tiền gia đình cho, tôi đã đọc không biết bao nhiêu tác phẩm văn học Nga – Xô-viết. Trong trí nhớ của tôi ngổn ngang những tác phẩm như : Xê-vat-trô-pôn ( L. Tolstoi), Những đóm lửa ( Korolenko ), Chuyện sông Đông , Số phận con người ( M. Solokhov ), Gia đình Golovdiov ( ), Đêm trước ( I. Turgeniev ), Paris sụp đổ ( I. Erenburg ), Tuyển truyện ngắn ( A. Tsekhov ), Tuyển truyện ngắn ( M Gorki ), Thép đã tôi thế đấy ( Ostrovski ), bộ ba tác phẩm chân dung văn học là Bông hồng vàng-Bình minh mưa-Một mình với mùa thu ( K. Pautovsky ), Cây phong non chùm khăn đỏ, Vình biệt Gun-sa -rư , Con chó khoang chạy bên bở biển, Đoạn đầu đài ( T. Aimatov ), Truyện một người chân chính, Những người Xô-viết chúng ta ( B. Polevoi ), Daghestan của tôi ( R.Gamzatov ), Bến bờ ( I. Bondarev ), Trên mảnh đất người đời (K.Ivanov) , Và nơi đây bình minh yên tĩnh ( Vaxiliev ), Bài ca núi Anpơ (V. Bưkov )… Rồi đó là hàng loạt những cái tên như : K. Feedin, A. Platonov, B. Zitkov, N. Dumbadze, F. Gladkov, K.Ximonov, V. Sucsin, Raxputin, A. Kron …v.v… Dạo đó, những tác phẩm bị xem là có vấn đề về chính trị như các tác phẩm của I. Bunin, thơ và tiểu thuyết của B. Pasternak ( Bác sĩ Zivago ), của A. Soljenitsin; hoặc những tác phẩm được cho là khó hiểu hoặc lạ lẫm kiểu như Trái tim chó, Nghệ nhân và Margrita ( M. Bugakov ), hay như Lôlita ( Nabokov) không hề được dịch và xuất bản, mà chỉ nghe phong thanh rằng hay ho thế này xuất sắc thế kia chứ nào biết đầu cua tai nheo ra sao.
Văn học Nga – Xô-viết đã chinh phục nhiều thế hệ người Việt Nam, trước tiên là bởi tình cảm với quê hương Cách mạng Tháng Mười, với đất nước của V.I.Lenin, sau nữa là vì chính sự xuất sắc của nền văn học đó.Vào thời ấy, hết thảy những ai yêu văn học, ở độ tuổi học trò rồi sống đời sống sinh viên, hoặc ra mặt trận, đều mang trong lòng tình cảm và hình bóng một vài nhân vật hay tác phẩm văn chương Nga – Xô-viết. Ngày ấy, những tác phẩm thắp lên bầu nhiệt huyết của thanh niên Việt Nam và trở thành cẩm nang gối đầu giường là những Thép đã tôi thế đấy, Đội cận vệ thanh niên, Trong chiến hào Stalingrad ; tuổi trẻ học đường chớm yêu đương thì truyền tay nhau Mối tình đầu của Turgeniev, Anna Karenina của L. Tolstoi, Bông hồng vàng của Paustovski, là Chuyện núi đồi và thảo nguyên của Aimatov, là thơ Pushkin và Lermontov .v.v…
Văn học Nga
Văn học Nga
Tôi nhớ, văn học Nga – Xô-viết đã làm nên những hiện tương xã hội, những trào lưu nho nhỏ. Ví như, Thép đã thôi thế đấy, đã thôi thúc nhiều nam thanh niên viết đơn tình nguyện ra mặt trận ( thậm chí đã có người cắt tay lấy máu mình để viết đơn ) ; Bài thơ Đợi anh về của K. Ximonov qua bản dịch của nhà thơ Tố Hữu làm nhiều người xúc động, dám hy sinh mà không bi lụy ; Cuộc họa thơ tình tay đôi giữa Berxonov – Onga Bergon dậy lên trào lưu tình yêu tinh thần trong giới sinh viên ; Tiểu thuyết luận đề Thao thức của A. Kron đã cho thấy phần nào sự xơ cứng của xã hội và nhà nước Liên Xô với những giá trị ảo, đồng thời sớm cảnh báo về một sự rạn nứt khó bề cứu vãn, đã làm không ít trí thức ta phải suy ngẫm, kiểm chứng …
Sự thăng hoa của tâm trạng nhiều khi lại bắt nguồn từ sự thăng hoa của âm nhạc và văn học, và nó dẫn đến sự thăng hoa về sáng tạo. Không biết với những người khác thì thế nào, riêng với tôi , văn học Nga-Xôviết không những dẫn dắt tôi đến lòng yêu cuộc sống và tình yêu đôi lứa, hơn thế còn thắp lên trong tôi sự khát khao của sáng tạo, đưa tôi đến con đường sáng tác văn học. Nếu như văn học sử Trung Quốc đã mê hoặc tôi, kích thích lòng ham hiểu biết, khiến tôi bị lôi kéo để rồi sa đà vào mớ bòng bong rối rắm của các sự kiện và buồn vui theo sự thăng trầm của lịch sử, thì văn học Nga – Xô-viết lại khiến lòng tôi rạo rực đam mê, ham sống và mong muốn được sáng tạo, cống hiến. Tôi biết ghi nhật ký, bắt đầu viết những vần thơ, những dòng văn đầu tiên là nhờ thế !…
Bây giờ văn chương đa sắc màu, đa diện… Đông hay Tây, cổ hay kim, thích hoặc không, đều vô nghĩa cả, khi mà internet luồn lách và xuyên phá hết thảy. Việc định giá trị thật – giả , hiện thực – huyền ảo cũng khó lắm thay. Người đọc có quyền, họ tự lựa chọn và biết tìm cách để đọc được những gì họ cần xem, muốn xem. Vậy thì, lựa chọn cái gì là việc của họ, công việc của người cầm bút là viết. Viết ra những gì mà mình tâm đắc, mình muốn bộc lộ, thể hiện…
Với người viết, sống trong một bầu không khí như thế tưởng dễ lắm thay, song kỳ thực lại khó lắm thay…. Và giờ đây, sống trong một thế giới có HIV và ma túy, có bạo lực và khủng bố, có hạt nhân và virus máy tính … thì ai có thể tránh được đây, và cũng chẳng thể dọn nhà sang một thế giới khác trong sạch hơn để sinh sống ? Chỉ còn cách chấp nhận và sống chung, với sự nỗ lực mang tính cá nhân nhiều hơn ?…. Ấy là lúc âm nhạc và văn chương lên tiếng. Đấy là dạng thức, là phương tiện, hơn thế là công cụ, để nâng đỡ và cứu rỗi tinh thần con người ta. Tôi đã từng yêu văn học Nga – Xô-viết với cả tấm tình. Tôi không hề hối tiếc, bởi với tôi, văn học Nga – Xô-viết luôn luôn là chiếc nôi vĩ đại và êm ái, bởi giờ đây, vẫn chính văn học Nga – Xô-viết nâng giấc tâm hồn tôi !…

Tôi đã hiểu thế nào là đặc sản Nga, bánh mỳ đen với muối và văn học, tôi đã hiểu thế nào là tâm hồn và tính cách Nga.

Mặc dù, chưa một lần đặt chân đến nước Nga mà tôi lòng đã đầy ắp ký ức về thiên nhiên và con người Nga như đã sống những năm dài ở đó, chỉ là qua cuộc thám hiểm kỳ thú vào thế giới văn học Nga – Xô-viết mà thôi !…
ST-- http://tourdulichnga.net/van-hoa/van-hoc-nga-chiec-noi-cua-su-vi-dai.html

Wednesday, August 2, 2017

Lịch sử đồng hồ Nga: ” Nền công nghiệp đồng hồ bí ẩn”

Nhiều chuyên gia và ngay cả người tiêu dùng cũng đồng ý rằng: Chất lượng và mẫu mã thiết kế của đồng hồ đeo tay thời Liên Xô (nay là đồng hồ Nga) không hề thua kém với bất kỳ nhãn hiệu đồng hồ cao cấp nào hiện nay. Cùng với đó, đồng hồ Nga cũng có một lịch sử rất hào hùng trong nền công nghiệp đồng hồ thế giới.

Liên Xô từng là nền công nghiệp đồng hồ hàng đầu thế giới
Lịch sử đồng hồ Nga rất đáng quan tâm, trải qua thời gian gần 90 năm kể từ ngày thành lập Nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên tại Moscow, mà ngày nay nó được biết đến với thương hiệu Poljot. Sự kiện tự hào và đáng nhớ nhất trong ngành sản xuất đồng hồ Liên Xô là vào năm 1961, khi phi hành gia Yuri Gagarin mang một chiếc đồng hồ được sản xuất từ nhà máy đồng hồ đầu tiên tại Moscow bay vào không trung.
THEO DÒNG LỊCH SỬ ĐỒNG HỒ NGA
❖ 1927: Hội đồng Lao Động và Quốc Phòng Liên Xô đã thông qua sắc lệnh thành lập nền công nghiệp sản xuất đồng hồ nhằm đáp ứng nhu cầu của Nhà nước và Hồng quân Liên Xô. Tiêu chuẩn để sản xuất đồng hồ Liên Xô là đáp ứng điều kiện chính xác, đáng tin cậy và không hề thua kém về chất lượng với các đối tác từ phương Tây.
❖ 1929: Liên Xô mua lại 2 xí nghiệp chế tác đồng hồ Mỹ để mở xưởng cho mình. Các xí nghiệp này là cơ sở hình thành Nhà máy đồng hồ quốc gia số 1 và 2, đi vào hoạt động tại Moskva thập niên 1930.

Nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên

❖ 1930: 50 chiếc đồng hồ đầu tiên được Liên Xô giới thiệu tại một buổi lễ mít tinh tại Nhà hát cách mạng, nay là Nhà hát Bolshoi.
❖ 1931: Thành lập nhà máy Quốc gia đá kỹ thuật chính xác số 1 ở Peterrhof để sản xuất chân kính đồng hồ. Nhờ đó, Nhà máy đồng hồ số 1 có thể sản xuất xưởng đồng hồ đeo tay và đồng hồ bỏ túi, còn nhà máy đồng hồ số 2 chế tạo đồng hồ báo thức và đồng hồ điện tử.
❖ 1940: Nhà máy sản xuất đồng hồ số 1 đã cho ra đời dòng đồng hồ Komandirskie cho các sĩ quan quân đội Hồng quân sử dụng. Đồng hồ có dấu khắc đặc biệt được quân đội sử dụng để trao thưởng, biểu dương. Trong 15 năm, kể từ khi thành lập, nhà máy đã sản xuất 2.700.000 chiếc đồng hồ bỏ túi và đeo tay.

Thành phố Zlatoust nơi đặt nhà sản xuất đồng hồ sau khi được di tản

❖ 1941: Nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên tại Moscow đã được di tản tới thành phố của Zlatoust, do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ 2.
❖ 1942: Nhà máy sản xuất đồng hồ Chistopol được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu. Đây cũng chính là điểm khởi nguồn cho thương hiệu Vostok ngày nay.

Phiên bản đồng hồ K-43

❖ 1943: Phiên bản đồng hồ K-43 lịch sử được sản xuất tại nhà máy Chistopol.
❖ 1946: Ra mắt phiên bản đồng hồ hiệu Pobeda. Tên, thiết kế và tính năng của đồng hồ này do đích thân Stalin phê duyệt.

Phiên bản đồng hồ Shturmanskie dành cho quân đội

❖ 1949: Nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên tại Moscow sản xuất mẫu Shturmanskie. Những chiếc đồng hồ này chỉ sử dụng cho không quân, không bán cho dân sự.

Mẫu đồng hồ Sputnik có kim gió hình vệ tinh

❖ 1957: Để tôn vinh vệ tinh đầu tiên của Liên Xô lên bầu trời, Nhà máy sản xuất đồng hồ đã cho ra đời dòng đồng hồ Spunik. Được sản xuất theo 2 mẫu: Mẫu mẫu kim gió (kim giây) bình thường và một mẫu kim tròn hình chiếc vệ tinh thay cho kim gió. Cũng trong năm này, nhà máy đã cho ra đời phiên bản đồng hồ Antarktida, được thiết kế với hệ thống 24 giờ, dành riêng cho những nhà thám hiểm đầu tiên của Liên Xô đặt chân đến Nam Cực.
❖ 1959: Bộ chuyển động đồng hồ có chức năng chuông reo báo thức được đưa vào mẫu đồng hồ lấy tên là Signal được ra mắt. Cùng năm này, chuyển động Chronograph được sản xuất dưới thương hiệu Strela được sản xuất.


Tên thương hiệu Poljot ra đời năm 1960

❖ 1960” Nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên tại Moscow đổi tên thành thương hiệu Poljot.
❖ 1961: Chuyến bay đầu tiên vào không gian trong lịch sử nhân loại đã cất cánh, Yuri Gagarin mang chiếc đồng hồ do Nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên tại Moscow lên không gian với ông.
❖ 1964: Hoàn thiện việc sản xuất đồng hồ tự động 29 chân kính. Kể từ năm đó, những chiếc đồng hồ do nhà máy sản xuất đồng hồ đầu tiên tại Moscow sản xuất đều được đóng mộc Poljot.


❖ 1965: Phi hành gia Andrey Leonov, cùng chiếc đồng hồ Strela của ông, trở thành người đầu tiên đi bộ trong không gian đầu tiên của nhân loại. Cũng trong năm này, Poljot trở thành hãng đầu tiên tại Liên Xô xuất khẩu đồng hồ. Các đồng hồ được xuất khẩu sang 70 quốc gia: Mỹ, Ý, Đúc, Anh, Bỉ, Hồng Kông, Hy Lạp,…
❖ 1968: Tất cả các đồng hồ được sản xuất bởi Nhà máy sản xuất đồng hồ Chistopol sử dụng thương hiệu Vostok. Trong các mẫu thiết kế mới có mẫu “Amphibian” với khả năng chịu nước ở độ sâu 200m.
❖ 1972: Đồng hồ Vostok xuất khẩu ra 54 quốc gia trên thế giới.
❖ 1973: Thương hiệu Poljot tăng số lượng sản xuất lên đến 2.700.000 Chiếc. 70% được xuất khẩu ra nước ngoài.

Mẫu đồng hồ Shturmanskie có chức năng Chronograph

❖ 1976: 5 năm sau sự kiện Seiko của Nhật cho ra đời đồng hồ Quartz, Thụy Sỹ nghiên cứu dự án Beta 21.Thì các nhà nghiên cứu đồng hồ tại Liên Xô, đã cho ra đời chiếc đồng hồ Quartz đầu tiên của họ. Và tại hội chợ Leipzig Liên Xô giới thiệu mẫu Chaika Kvaevi Rezonator, chiếc đồng hồ chính thức là đồng hồ quartz đầu tiên do Liên Xô sản xuất.
❖ 1991: Chính quyền nước Nga chọn Poljot làm quà tặng từ tổng thống Liên Bang Nga.

Bộ sưu tập đồng hồ Nga

❖ 2004: Vostok-Châu Âu được thành lập. Tuy là công ty Lit-va. Nhưng công ty vẫn nhập các bộ máy Vostok từ Chistopol.
❖ 2007 – Hãng Poljot International được thành lập tại Đức. Hãng này không dính dáng gì đến nhà máy Poljot ở Moscow, nhưng một số dòng đồng hồ do hãng này sản xuất có sử dụng máy chronograph 3133 của Poljot.
❖ 2010: Nhà máy đồng hồ Minsk hùn cổ phần với công ty Frank Muller – Thụy Sỹ.
Những năm qua, các nhà sản xuất đồng hồ Nga đã đi đến thỏa thuận không chấp nhận cung cấp máy cho những kẻ mua bán đồng hồ trái phép

ST-- http://www.nuocnga.info/2017/07/31/lich-su-dong-ho-nga-nen-cong-nghiep-dong-ho-bi/

40 câu tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn bằng tiếng Nga




“Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Từ xa xưa ông cha ta đã để lại cho dân tộc kho tàng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn vô cùng phong phú với ý nghĩa sâu sắc. Dưới đây là topic tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn Việt Nam được dịch sang tiếng Nga.


Vì thành ngữ, tục ngữ có ý nghĩa sâu sắc và phong tục tập quán của người Việt và người Nga khác nhau do vậy khi tra ngữ có gì sai sót, mong các bạn sửa lại giúp. Xin cảm ơn!
1. Cha nào con nấy

Каков отец, таков и сын
2. Đẹp như trong tranh

Красиво, как на картинке
3. Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung

Лягушке, сидящей на дне колодца, небо кажется не более лужицы
4. Khôn nhà, dại chợ.- Дома не так, а в людях дурак.

Khôn nhà dại chợ – Домашняя дума в дорогу не годится
5. Nghĩa tử là nghĩa tận

“Перед смертью не слукавишь”
6. đi ngày đàng, học sàng khôn

Ученому везде дорога
Чужая сторона прибавит ума

7. Học tài thi phận

Талант талантом, а без везенья никуда
8. Đầu voi đuôi chuột

– Сначало густо, а под конец пусто.
9. Chở củi về rừng

– В Тулу со своим самоваром не ездят
10. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.

Каждый шаг пути прибавляет частицу мудрости.
Чем дальше в лес, тем больше дров.

11. Vạn sự khởi đầu nan

Все трудно лишь сначала
12. Tìm bạn mà chơi, tìm nơi mà ở

Выбирай место для жилья, друга – для игры
13. Đục nước béo cò

Где мутная вода, там жирные цапли
14. Ở đâu có hoa, ở đó có bướm

Где цветы, там и бабочки
15. Có mắt như mù

Глаза есть, да зрачков нету
16. Nhanh mắt, nhưng vụng tay chân

Глаза проворны, да руки неловки
17. Điếc không sợ súng

Глухому выстрелы нипочем
18. Không chạy đường trường làm sao biết con ngựa giỏi.

Без длинных дорог – кто знает, хорош ли конь
19. Giẫy như cá nằm trên thớt.

Биться, как рыба на кухонном столе
20. Thuyền to gặp sóng lớn

Большому кораблю – большие и волны
21. Ao sâu cá lớn

В глубоком пруду – рыба крупная
22. Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường

В доме еще ничего не известно, а на улице уже все знают
23. Cờ đến tay ai, người đó phất

В чьих руках знамя, тот им и машет
24. Khi hoạn nạn mới biết lòng thành

Верность познается во время больших смут
25. Rượu vào lời ra

Вино входит – слова выходят
26. Rượu chảy vào lòng, như hổ chạy vào rừng

Вино входит в сердце, словно тигр в лес
27. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm

“Без кота мышам масленица”
28. Con không khóc mẹ không cho bú.

Ребенок не заплачет – мать груди не даст
29. Sông rộng sóng cả

Река широка – волны большие
30. Vẽ rồng nên giun

Рисовал дракона, а получился червяк.
31. Nhát như chuột ngày

Робкий, словно мышь днем
32. Tay làm, hàm nhai – tay quai miệng trễ

Руки работают – зубы жуют, руки отдыхают – зубы без дела.
33. Không có lửa, làm sao có khói.

Дыма без огня не бывает
34. Muối bỏ biển.

Бросать соль в море
35. Chở củi về rừng.

Возить дрова в лес
36. Không có lửa sao có khói

Где дым, там и огонь
37. Há miệng mắc quai

Быть связанным своим словом
38.Không ăn được thì đạp đổ hoặc Chó già giữ xương

Как собака на сене
39.Nước chảy đá mòn

Вода камень точит
40. Có thực mới vực được đạo

Без муки нет и науки


ST-- http://www.nuocnga.info/2017/07/22/40-cau-tuc-ngu-thanh-ngu-danh-ngon-vie%CC%A3t-bang-tieng-nga/

Vì sao người Nga hiếm khi mỉm cười?


Nhiều người ở phương Tây biết rằng dân Nga không cười với người lạ. Các nhà khoa học Ba Lan đã cố gắng lý giải nguyên nhân vì sao người Nga có vẻ mặt nghiêm trang và họ có thái độ như thế nào với nụ cười.



Nghiên cứu cho thấy rằng người Nga không tin tưởng những người hay cười. Trước hết, người Nga cho rằng nụ cười là biểu hiện của sự thiếu thành thật. Nếu như Thụy Sĩ nụ cười là dấu hiệu trung thực thì ở Nga nụ cười lại được coi là liên quan với sự dối trá.
Ngoài ra, những người mỉm cười ở Nga thường được coi là… ngốc nghếch. Và không chỉ ở Nga. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng ở một số nước, trong đó có Nhật Bản, Ấn Độ, Iran, Hàn Quốc, Nga và Pháp, nụ cười được coi là chỉ số thông minh thấp.
Nói chung, nghiên cứu cho thấy rằng trong một số nền văn hóa, nụ cười có thể có ý nghĩa tiêu cực, mặc dù trong nhiều trường hợp đó là một tín hiệu tích cực.

ST-- http://www.nuocnga.info/2017/07/30/vi-sao-nguoi-nga-hiem-khi-mi%CC%89m-cuoi/

Sơ lược lịch sử nước Nga

Với diện tích gần gấp đôi nước Mỹ, rộng khắp Đông Âu và Bắc Á, lãnh thổ của nước Nga kéo dài từ Biển Baltic phía Tây cho đến Thái Bình Dươ...